Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Thị xã Điện Bàn - Tỉnh Quảng Nam

http://tuoitredienban.net


PHẢN BÁC NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI VỀ VẤN ĐỀ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được nhận thức từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá vào Việt Nam. Ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) xác định rõ mục tiêu là “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Luận cương chính trị tháng 10 - 1930 xác định cách mạng Việt Nam sẽ “bỏ qua thời kỳ tư bổn mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.

Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo dân tộc thực hiện mục tiêu con đường đã lựa chọn và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chấm dứt chế độ phong kiến, thuộc địa, mở ra thời đại vẻ vang của dân tộc. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc và các thế lực xâm lược biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước. Thắng lợi của công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là những thắng lợi vĩ đại của toàn dân tộc Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Thế nhưng, trong thời gian gần đây trên các diễn đàn, nhất là trên không gian mạng có những luận điệu lạc lõng rêu rao rằng: Việt Nam lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, là đẻ non, là duy ý chí, là trái quy luật phát triển... Những luận điệu này cơ bản xoay quanh các lập luận như: các nước trong khu vực phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, nay đã trở thành những “con rồng”, “con hổ” châu Á. Trong khi Việt Nam vẫn là nước chậm phát triển, còn nhiều hạn chế, yếu kém về kinh tế - xã hội, bộc lộ nhiều sai lầm về đường lối, không đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước. Cho nên, không nhất thiết phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, con đường nào cũng được miễn sao giàu mạnh, “chưa đẻ con đã lo đặt tên”; “Sự hùng mạnh như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, từng là thành trì của chủ nghĩa xã hội cuối cùng cũng từ bỏ ngọn cờ để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Do đó, một nước như Việt Nam không nên tiếp tục đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, mà nên rẽ theo một hướng khác, con đường khác để mở đường phát triển…(?)

Vậy, thực chất của những luận điệu trên đây là gì? Cơ sở nào để Việt Nam lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội? Và vì sao Việt Nam kiên định con đường đã lựa chọn? Việc thảo luận để làm rõ những căn cứ khoa học, góp phần làm sáng tỏ những quan điểm lý luận của Đảng ta; đồng thời phát triển, bổ sung những kết luận đã có, trên cơ sở đi đến thống nhất nhận thức, kiên định lập trường, phê phán những luận điệu sai trái, thù địch là vấn đề cấp bách và hệ trọng.

1. Về cơ sở lý luận

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: Sự thay thế của một hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội khác xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển ngày càng mang tính xã hội hóa và mâu thuẫn với quan hệ sản xuất nội tại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sự mâu thuẫn đó biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp, sớm hay muộn tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn ra đời thay thế cho hình thái kinh tế - xã hội cũ đã lỗi thời lạc hậu. Theo quy luật đó, trên bình diện chung, lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay đã và đang phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Nhưng, trong từng điều kiện cụ thể thì không nhất thiết ở đâu, quốc gia nào cũng phải phát triển tuần tự qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội, mà có thể bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội để phát triển lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, ưu việt hơn khi điều kiện cho phép, và sự phát triển của lịch sử nhân loại từ trước đến nay đã chứng thực điều đó đúng.

Vận dụng phương pháp luận đó vào luận giải quy luật phát triển của cách mạng vô sản, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra hai khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội: i) quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; ii) quá độ gián tiếp bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Trong những năm cuối đời C.Mác, Ph.Ăngghen đã hướng đối tượng nghiên cứu về các nước phương Đông lạc hậu. Từ đó các ông chỉ ra rằng: điều kiện cách mạng ở phương Đông khác với phương Tây. Về kinh tế, nếu như ở phương Tây tồn tại chế độ tư hữu ruộng đất cát cứ, thì ở phương Đông tồn tại chế độ công hữu ruộng đất tập quyền, nên để lật đổ chế độ chuyên chế tập quyền sẽ dễ thực hiện hơn xóa bỏ chế độ cát cứ. Về mặt xã hội, với chế độ kinh tế đó, nó đã quy định ở phương Đông tồn tại một cơ cấu xã hội “hết sức đặc biệt” - chế độ công xã nông thôn. Do đó, tính cố kết, cộng đồng nó đã hình thành, ăn sâu vào tiềm thức của con người, xã hội nơi đây. Vì vậy, nếu được tổ chức thì phong trào cách mạng ở các nước phương Đông lạc hậu sẽ có khả năng bỏ qua chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa cộng sản.

Từ thực tiễn nghiên cứu đó, đến năm 1882, một câu hỏi được đặt ra đối với C.Mác là: Công xã Nga, cái hình thức thật ra bị phá hoại ghê gớm ấy của chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy, có thể chuyển thẳng sang hình thức cao, hình thức công hữu cộng sản chủ nghĩa được không? Hay là, trái lại, trước hết nó cũng phải trải qua cái quá trình tan rã giống như quá trình mà tiến trình lịch sử của phương Tây phải trải qua? C.Mác cho rằng, ngày nay, lời giải đáp duy nhất có thể có được cho câu hỏi ấy là thế này: nếu cách mạng Nga là tín hiệu của cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng đó bổ sung cho nhau thì chế độ sở hữu công xã về ruộng đất ở Nga hiện nay có thể là điểm xuất phát của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa. Nghĩa là, nếu cách mạng Nga mở đầu cho phong trào cách mạng vô sản phương Tây và kết hợp với phong trào cách mạng vô sản ở các nước phương Tây phát triển, thì nước Nga có thể đi lên chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu đó của C.Mác, trong điều kiện lịch sử mới, nhất là sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, V.I.Lênin cho rằng: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênnin cũng lưu ý: chỉ bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội này để phát triển lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn khi có các điều kiện: i) đã xuất hiện mô hình xã hội mới tỏ ra ưu việt, tiến bộ hơn; ii) chế độ xã hội hiện tồn đã thối nát và lạc hậu; iii) đã xuất hiện giai cấp đủ khả năng để lãnh đạo phong trào cách mạng. Đồng thời các ông cũng đưa ra cảnh báo: đối với những nước lạc hậu việc lựa chọn con đường quá độ đi lên chủ nghĩa cộng sản sẽ dễ dàng hơn những nước tư bản phát triển, nhưng để đạt được nó - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội sẽ khó khăn hơn, lâu dài hơn, phức tạp hơn và phải trải qua rất nhiều lần thử nghiệm, trong quá trình đó đôi lúc cũng phải trả những giá đắt cho những sai lầm do giáo điều, duy ý chí, nóng vội…

Từ những vấn đề lý luận trên đây cho thấy, Việt Nam lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn có cơ sở, hội tụ đủ các điều kiện mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận chứng trước đó.

2. Cơ sở thực tiễn

Lịch sử dân tộc Việt Nam trước khi Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có rất nhiều phong trào yêu nước chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi khắp bắc, trung, nam. Từ phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX, cuộc khởi nghĩa Yên Thế kéo dài đến đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng có xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, phong trào có xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh, đến cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học,... Các phong trào kể trên đều sáng ngời tinh thần yêu nước theo những ý thức hệ khác nhau, từ những phong trào theo hệ tư tưởng phong kiến, theo lập trường nông dân, hoặc theo hệ tư tưởng tư sản, đều đã được lịch sử kiểm nghiệm, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Ðó là sự bế tắc và thất bại về đường lối cứu nước, và “tình hình đen tối như không có đường ra”. Thực tiễn đó khẳng định: muốn cứu nước, giải phóng dân tộc phải tìm con đường khác, phù hợp với thực tiễn dân tộc và xu thế phát triển của thời đại.

Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) ra đi tìm đướng cứu nước (5/6/1911), theo tiếng gọi của ngọn cờ “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản, với mong muốn sang các nước tư bản phát triển để học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây để về giúp đồng bào thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Vì vậy, Người đã đến các nước tư bản phát triển như: Pháp, Anh, Mỹ và nhiều nước thuộc địa của thực dân Pháp,… quan sát và tìm hiểu chủ nghĩa tư bản, tìm hiểu cuộc sống của người dân ở chính quốc và các nước thuộc địa của thực dân, đế quốc. Từ đó Người đưa ra kết luận quan trọng: các cuộc cách mạng tư sản đều là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng nó chưa đến nơi, vì cách mạng thành công rồi chỉ đem lại lợi ích cho thiểu số giai cấp, còn đông đảo quần chúng lao động vẫn chịu cảnh áp bức bóc lột dưới một hình thức mới, với “ông chủ” mới mà thôi. Cho nên, cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường này, nếu đi theo con đường cách mạng tư sản, cùng lắm chỉ “giải phóng được dân tộc”, nhưng nhân dân vẫn bị áp bức bóc lột, vẫn mãi phải chịu kiếp ngựa trâu, thì độc lập dân tộc sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Chỉ khi Nguyễn Ái Quốc đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó Người cho rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Trong bối cảnh lịch sử đó, khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bà vào Việt Nam thì được cả dân tộc đón nhận, đi theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Hơn nữa, khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, đã mở ra một thời đại mới đối với lịch sử nhân loại, quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện như vậy, cách mạng Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội  là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc, là con đường duy nhất đúng đắn, hợp quy luật, chứ không phải là sự áp đặt chủ quan của bất kỳ ai - điều này đã được chính lịch sử khảo nghiệm.

3. Vì sao Việt Nam tiếp tục kiên định con đường đã chọn?

Trước sự kiện sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đã có một số người dao động, bi quan, nghi ngờ sự đúng đắn của chủ nghĩa xã hội khoa học. Từ đó họ cho rằng, chúng ta đã chọn sai con đường và cần phải đi theo con đường khác - con đường chủ nghĩa tư bản hoặc con đường thứ ba, mà thực chất là chủ nghĩa xã hội dân chủ.

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích ở trên đã khẳng định con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự lựa chọn của chính lịch sử, của dân tộc, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định mục tiêu, lý tưởng cách mạng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Trên thực tế trong suốt gần 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã phấn đấu, hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội và đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Chẳng lẽ hiện nay chúng ta từ bỏ những thành quả cách mạng đã đạt được!

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu có nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân sâu xa là, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu vĩ đại, đã có những khiếm khuyết, nhược điểm nghiêm trọng về mô hình xây dựng, phát triển chậm được phát hiện và khắc phục, gây ra tình trạng trì trệ kinh tế - xã hội, dẫn tới khủng hoảng. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp là, trong cải tổ, Ðảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Ðó là đường lối xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin của một số nhân vật lãnh đạo đảng. Chủ nghĩa đế quốc đã lợi dụng những khó khăn và sai lầm về đường lối của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu để đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” cực kỳ thâm độc, can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Cuối cùng, chủ nghĩa đế quốc đã “không đánh mà thắng”. Dĩ nhiên, chúng không thể làm được điều này, nếu cải tổ có đường lối đúng đắn, nếu hơn 20 triệu đảng viên cộng sản Liên Xô có tinh thần cảnh giác cách mạng và sức chiến đấu cao, không để nội bộ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” khiến cho bọn cơ hội, xét lại và phản bội thao túng cơ quan lãnh đạo của Ðảng, nếu có sự cố kết chặt chẽ giữa Ðảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô.

Trước hiện thực đó Đảng ta chỉ rõ, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đó là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, chứ không phải là sự lạc hậu hay sụp đổ của một học thuyết khoa học và cách mạng. Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), trước những khó khăn và phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế, đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định con đường cách mạng của nước ta là “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Đây cũng là lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta phác thảo ra mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã đưa ra quan niệm, cách thức, biện pháp, bước đi phù hợp với điều kiện cụ thể đất nước, khác với các mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đã sụp đổ. Để từ đó chúng ta định hướng con đường, để không mắc phải những sai lầm của các mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trước đó, đồng thời khẳng định Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

Vấn đề cần phải làm rõ hơn ở đây là, nhận thức về chủ nghĩa xã hội như thế nào cho đầy đủ! Chúng ta cần lưu ý, chủ nghĩa xã hội là mong muốn, khát vọng của nhân loại. Từ thời cổ đại đến nay loài người luôn mơ ước đến một xã hội tốt đẹp, vì mục tiêu dân chủ, công bằng, bình đẳng, hạnh phúc cho con người. Như V.I.Lênin từng nói: các dân tộc sẽ tùy vào điều kiện cụ thể sẽ có những hình thức và bước đi khác nhau, song sớm hay muộn tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nếu chủ nghĩa xã hội trước Mác nó chỉ là mơ ước, khó trở thành hiện thực, thì chủ nghĩa xã hội khoa học đã chỉ ra con đường, lực lượng, biện pháp, cách thức, bước đi để thực hiện được mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Đó là điểm khác nhau cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với chủ nghĩa xã hội trước Mác. Điều đó có nghĩa là, tất cả các dân tộc trên thế giới cuối cùng đều đi lên chủ nghĩa xã hội, còn Việt Nam đang đi lên chủ nghĩa xã hội theo mô hình lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin hay còn gọi là chủ nghĩa xã hội khoa học. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải nhận thức đúng bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình phát triển và vận dụng sáng tạo vào điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, những hạn chế, khó khăn của quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta không phải là bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà là do cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực không tuân theo những nguyên lý chỉ dẫn của chủ nghĩa xã hội khoa học và sự nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội chưa đầy đủ.

Kiên định và đổi mới con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã và đang chứng minh tính đúng đắn cách mạng. Nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, trong một thời gian khá dài nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội chưa đầy đủ cả lý luận và thực tiễn. Điều này đã dẫn đến xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính rập khuôn, máy móc, giáo điều, không phản ánh đúng quy luật khách quan của sự phát triển. Ngay cả hiện nay, không ít vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ, nhận thức để vận dụng sáng tạo, phù hợp vào điều kiện cụ thể của đất nước.

Từ quá trình đổi mới đất nước cho thấy, bên cạnh những thành tựu đạt được, thì còn những hạn chế, yếu kém do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là chưa có tiền lệ trong lịch sử, xuất phát điểm thấp, vì vậy trong quá trình đó chúng ta không tránh khỏi những khó khăn, sai lầm. Điều này cũng được chính các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã cảnh bảo đối với các nước lạc hậu bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội.

Quan trọng là Đảng ta đã nhận ra sai lầm, khuyết điểm để sửa chữaa, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước ngày càng phát triển đúng định hướng. Từ một đất nước nghèo, bị bao vây, cấm vận, cô lập bởi các nước đế quốc và các thế lực thù địch, đến nay chúng ta đã ra khỏi nhóm nước nghèo, bước vào nhóm nước có mức thu nhập trung bình, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Thế và lực của Việt Nam ngày càng lớn mạnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được khẳng định, không chỉ là thành viên tích cực, mà còn là thành viên có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế, “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Điều đó đang cho thấy chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa.

Vậy, chẳng lẽ chúng ta từ bỏ con đường cách mạng đúng đắn đang đi? Câu trả lời là không bao giờ! Đó chỉ là ý kiến của các thế lực thù địch nhằm chống phá con đường cách mạng nước ta hoặc của một bộ phận nhận thức không đúng về chủ nghĩa xã hội, lập trường và bản lĩnh chính trị không vững vàng, biểu hiện sự suy thoái về tư tưởng chính trị. Vậy, nếu chọn con đường khác ở đây là con đường nào? Về mặt lý luận và thực tiễn như đã chứng minh, ở Việt Nam không thể đi theo con đường chủ nghĩa tư bản. Còn chủ nghĩa xã hội dân chủ thực chất cũng chỉ là chủ nghĩa tư bản xét về bản chất. Xét đến cùng cả hai mô hình này sẽ không bao giờ đem lại lợi ích cho quần chúng nhân dân lao động, mà chỉ đem lại lợi ích cho thiểu số giai cấp tư sản. Hơn nữa, trên thực tế chỉ ra rằng, phần lớn các quốc gia trên thế giới hiện đang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa dưới những hình thức khác nhau, nhưng có điểm chung là sự phát triển không đều, không phải cứ quốc gia nào đi theo chủ nghĩa tư bản thì đều phát triển, ngược lại là đói nghèo, xã hội bất ổn. Chính chủ nghĩa tư bản đang tạo ra khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc, đang để lại một châu Phi đói, một châu Á nghèo, một châu Mỹ nợ nần chồng chất và một châu Âu chia rẽ, khủng hoảng kinh tế và bất ổn an ninh - chính trị,… Đó chẳng phải là bản chất của chủ nghĩa tư bản hay sao!

Cũng có người rêu rao rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam bảo thủ, đổi mới nữa vời, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “đầu Ngô mình Sở”; rằng chủ nghĩa xã hội chỉ là hình thức, còn bản chất đã ngã theo con đường chủ nghĩa tư bản. Đây là luận điệu nhằm phủ nhận những thành quả của sự nghiệp đổi mới và quá trình phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Như chúng ta biết, lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết mở, giá trị cốt lõi là phương pháp luận. Do đó, tất cả các dân tộc đều đi đến chủ nghĩa xã hội là quy luật chung, nhưng đi như thế nào thì tuy vào hoàn cảnh, điều kiện của từng quốc gia dân tộc. Điều này đã được chính các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin căn dặn: học thuyết của chúng tôi không phải như một cái gì đã xong xuôi hẳn, do đó để không muốn lạc hậu với cuộc sống những người cộng sản phải bổ sung, phát triển trong quá trình thực tiễn cách mạng.

Trong một thời gian chúng ta nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trước đổi mới, hệ quả là đất nước rơi vào khủng hoảng về kinh tế - xã hội trầm trọng. Xuất phát từ thực tiễn đó, Đảng ta đã nhận thức lại chủ nghĩa xã hội đúng theo tinh thần bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể đất nước. Vì vậy, từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) con đường đổi mới đã được thông qua. Sự đổi mới ở đây không có nghĩa là từ bỏ ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, mà đổi mới để nhận thức đúng, đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đổi mới ở đây là đổi mới tư duy, mà trước hết là tư duy kinh tế. Vì vậy, nếu trước đây chúng ta quan niệm những gì thuộc về chủ nghĩa tư bản là xấu, kể cả kinh tế thị trường chúng ta cũng quan niệm là con đẻ của chủ nghĩa tư bản. Thực chất điều này không đúng với tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, khi các ông cho rằng, nền kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa, nó tồn tại trong suốt thời kỳ quá độ và cả trong chủ nghĩa xã hội, là quy luật tất yếu của nền kinh tế do sự phát triển lực lượng sản xuất mang lại. Nếu trước đây, chúng ta quan niệm bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, thì hiện nay quan niệm là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nghĩa là, chỉ bỏ qua việc xác lập chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, còn tất cả những thành tựu nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản chúng ta phải kế thừa để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhất là những thành tựu về khoa học - công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Do đó, chúng ta chỉ bỏ qua chế độ chính trị áp bức, bóc lột, còn phát triển kinh tế chúng ta tuân theo quy luật phát triển khách quan. Vì vậy, quá trình đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, chứ không phải là ngã theo con đường tư bản chủ nghĩa như sự rêu rao của một số người.

Quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đang tiếp tục chứng minh đây là con đường cách mạng duy nhất đúng đắn của dân tộc. Chủ nghĩa xã hội hiện nay ở Việt Nam hướng đến xây dựng là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Dù bối cảnh, tình hình thế giới có những biến đổi, nhưng mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta là không bao giờ thay đổi. Độc lập dân tộc là điều kiện để đi lên chủ nghĩa xã hội, ngược lại chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc. Vì đây là mục tiêu đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, “là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” và của thời đại. Đương nhiên, vấn đề không chỉ là mục tiêu, lý tưởng, mà điều không kém phần quan trọng là phải tìm ra giải pháp, bước đi, cách làm khoa học, sáng tạo nhằm thực hiện cho bằng được mục tiêu, lý tưởng đã xác định. Chủ nghĩa xã hội của chúng ta xây dựng không phải là chủ nghĩa xã hội bị hiểu sai và làm sai như trước đây, mà là chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa xã hội đổi mới đúng đắn trên tinh thần phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn đất nước. Với những đặc trưng và phương hướng, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta xác định cần phải được quán triệt nhận thức và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, kiên định trong suốt hơn 90 năm qua. Vì vậy, chúng ta phải tỉnh táo, có đủ trí tuệ và bản lĩnh để nhận diện và bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch nhằm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

TS. Phạm Văn Giang - Hoc viên Chính trị khu vực III

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây